Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

Cách xem ngày giờ xuất hành - Đoán việc tốt xấu

Chào các bạn,
Đây chính thức là một trong những bài viết đầu tiên của blog này. Nếu sau khi đọc xong nếu thấy thích thì like nếu thấy hay thì subcribe nhé. (Đú đởn tí).



Dự đoán trước tương lai luôn là ước mơ của con người chúng ta. Từ bói bài, xem chỉ tay, nhìn tướng mặt. Cho đến ngồi đếm cỏ thi, xếp que tăm xem kinh dịch, luận tử vi, hoặc nhờ thầy địa lý xem phong thủy.

Từ cái ông tên là Khổng Minh trước giờ xuất quân cũng bấm xem nên xuất quân vào giờ nào. Cho đến mấy cái Tổng Giám Đốc nọ đi công tác nước ngoài cũng tính xem đi vào giờ nào.

Nói chung là chỉ đơn giản như trình bày ở bên dưới thôi :

Trước tiên chúng ta nên hiểu tại sao người ta chia 24 giờ hàng ngày thành giờ tí , giờ sửu, giờ dần, giờ mão.......

Khoảng thời gian từ 23 giờ đến 1 giờ sáng, người thời xưa nhà tranh vách đất, mấy con chuột abc với nhau kêu chít chít, loạn hết cả lên, *beep* ngủ được. Các cụ ức chế gọi nó là giờ Tí.

Khoảng từ 1 giờ sáng đến 3 giờ sáng, trâu nhà các cụ bắt đầu khoảng thời gian nhai lại, thi thoảng nghe thấy tiếng ợ rất to... =.= . Thôi thì gọi là giờ Sửu.

Khoảng từ 3 giờ sáng đến 5 giờ sáng, Hổ xuất núi kiếm ăn. Nhà nhà cửa đóng cài then, chuồng trại xếp kín đề phòng Hổ. Giờ đó gọi là giờ Dần.

Khoảng 5 giờ sáng đến 7 giờ sáng, hàng đàn con Thỏ ùa ra từ rừng, chạy đến bìa rừng để ăn sương trên những ngon cỏ. (Thỏ là loài không uống nước, chúng phải duy trì lượng nước trong cơ thể bằng cách ăn sương và tiện thể nhai luôn cỏ). Giờ đó gọi là giờ Mão (=.= thật sự cái này mình chưa hiểu rõ về các phiên âm, thế quái nào giờ Thỏ mà mình đọc thành Mão được).

Khoảng từ 7 giờ sáng đến 9 giờ sáng, thời điểm này mùa xuân có vẻ là mùa đẹp nhất. Các cụ gọi là thời điểm này là thời điểm, Rồng phun mưa xuân. Giờ ấy gọi là giờ Thìn.

Khoảng 9 giờ đến 11 giờ sáng, rắn xuất ổ, rắn chỉ ra khỏi ổ khi mà nhiệt độ rơi vào khoảng 20 độ C. Khoảng thời gian từ 9 giờ đến 11 giờ sáng có vẻ như là thời điểm thích hợp để rắn đi ăn :D. Giờ TỴ nhé.

Khoảng 11 giờ sáng đến 13 giờ, hàng đàn bầy ngựa hoang ùa đi tìm nước suối mát. Giờ Ngọ. (Bạn nào nghe câu giờ ngọ 3 khắc chưa nhỉ ? ).

Khoảng 13 giờ đến 15 giờ, mấu chú trẻ trâu (có lẽ thế) nếu có chăn dê trên núi thì nên lùa dê về giờ này, nếu lùa muộn hơn sẽ không thể đưa dê về nhà được, vì trên đường đi nó sẽ ngủ giữa đường. Giờ Mùi.

Khoảng 15 giờ đến 17 giờ, bọn khỉ gió sau khi ăn no sẽ ùa ra phá phách mùa màng. Giờ Thân.

Khoảng 17 giờ đến 19 giờ, giờ này gà đã lên chuồng. Giờ Dậu.

Khoảng 19 giờ đến 21 giờ, giờ này chó sủa mèo kêu, hay còn gọi là chó cắn ma. Giờ Tuất.

Khoảng 21 giờ đến 23 giờ, trâu kéo cảy cả năm chỉ bán lợn là đủ, đầu lợn được đặt lên bàn thờ cũng tôn kính như Hổ, nhìn bức tranh con lợn nằm ềnh ra sung túc an nhàn, con người ai chả thích thế, nhưng quan trọng là giờ này gọi là giờ Hợi bởi vì , giờ này nghe nói nó lại lần ra chỗ máng mà tợp thì phải.

Bây giờ chúng ta sẽ đi vào vấn đề chính :

Đầu tiên hãy nhìn vào bàn tay của mình và chúng ta chỉ lấy 3 ngón mà tôi đã khoanh vùng :



Coi mỗi đốt ngón tay là một ô vuông, chúng ta có 9 ô vuông tất cả được xếp theo hình sau :


Từ trái qua phải, cột một, chính là ngón chỏ, cột 2 chính là ngón giữa, cột 3 là ngón nhẫn.

Bây giờ ví dụ :

Ngày 20/03 âm , Luật sư Hoàng Yến có buổi tranh tụng tại tòa án nhân dân. Giờ tranh tụng vào lúc đầu giờ chiều, khoảng 14 giờ. Luật sư Hoàng Yến muốn rời khỏi nhà lúc 12 giờ (giờ Ngọ ). Cô ấy bấm đốt ngón tay.

Bắt đầu từ ô Đại An (Tháng giêng) đếm xuôi theo chiều kim đồng hồ, bỏ qua ô trống không đếm ô đó, thì tháng 2 là ô Lưu Niên, tháng 3 là ô Tốc Hỷ (Ok, dừng lại ở tháng 3 âm nhé, chúng ta đang xem ngày 20/03 âm mà !). Dừng ở ô Tốc Hỷ, coi ô đó là ngày mùng 1, đếm xuôi tiếp theo chiều kim đồng hồ, và bỏ qua ô trống (tức là không đếm ô trống ), đến ngày 20 thì dừng lại, nó dừng lại ở ô Xích Khẩu , nếu bạn đếm đúng.
Coi ô đó là giờ Tí, bạn đếm tiếp theo chiều kim đồng hồ, đến giờ Ngọ. Nó lại chính là ô Xích Khâu.

Xích khâu là ô ý chỉ, đi giờ đó dễ gặp cãi nhau. Luật sư đi tranh tụng, mà đi cãi nhau thì chuẩn cmnr. Nói chung, cô ấy nên đi giờ đó, nếu tự tin vào khả năng tranh tụng của mình.

Sau đây là ý nghĩa của mỗi ô : (Giải thích qua thôi, chứ ý nghĩa thì nhiều, bạn nào hứng thú tự search, mình chỉ ghi lại ý nghĩa cho dễ nhớ, dễ hiểu ).

Đại An : nghĩa là bình yên lớn.

Lưu Niên : nghĩa là chậm chạp, trì trệ.(việc tốt hay việc xấu đều trôi đi chậm chạp).

Tốc Hỷ : nghĩa là nhanh gọn đẹp chuẩn. (việc xấu hay việc tốt đều qua nhanh.)

Xích Khẩu : nghĩa là xảy ra cãi nhau, to tiếng. (Các sếp nếu mở ra cuộc họp và tranh luận tìm ý tưởng nên chọn giờ xuất hành vào giờ này ( giờ họp )).

Tiểu Cát : nghĩa là có món lợi nhỏ (đi siêu thị có người mới uống nước chẳng hạn :v ).

Không Vong : nghĩa là sát hại, chết chóc. (ngày xưa cụ Khổng Minh toàn chọn giờ này đi đánh nhau, quân địch và quân mình chết nhiều nhưng tướng của cụ thì giỏi hơn nên sẽ dành phần thắng, chiến tranh sẽ qua nhanh do 2 bên tổn hao sinh lực nhiều không kéo dài nhiều năm ).

Sau đây là bài tập: Các bạn hãy tập xem các giờ sau :

16/08 âm, bốc mộ lúc 4 giờ 30 phút sáng  (đáp án là Đại An ).
11/12 tảo mộ lúc 9 giờ 30 phút sáng (đáp án là Tốc Hỷ).
20/10 âm lịch, đi làm lúc 8 giờ sáng =)) (cái này mình chưa bấm ).


Ai có gì thắc mắc liên hệ với mình qua email

                                                      kieutrongtu@gmail.com

Hoặc comment ngay bên dưới cũng ok.

Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2011

Xem Tử Vi tuổi Tân Mão (1951, 2011) cho Nữ

Sinh năm: 1951, 2011
Cung Ly.
Mệnh: Tùng Bách Mộc (gỗ cây tùng bách)
Khắc: Lộ Bàn Thổ
Phật Bà Quan Âm độ mạng
Tử Vi Giải Đoán

Tân Mão mạng Mộc cung Ly,
Cây Tùng cây Bách ai bì mạng ta.
Đông Xuân sanh thuận hai mùa,
Giàu sang cũng có quới nhơn cũng nhiều.
Nhưng mà Thu Hạ chẳng an,
Cũng vì xung khắc sanh ra lỗi mùa.
Đặng sanh như ở nhà lầu,
Nghịch sanh như thể cây cầu gảy ngang.
Gái mà tuổi Mão rất hiền,
Thấy ai ngọt dịu có tiền cũng đưa.
Vợ chồng lở dỡ duyên xưa,
Nhiều chỗ nói cưới chẳng vừa ý ta.
Anh em xung khắc chẳng hòa,
Ở gần gây gỗ đi xa nhớ rày.



CUỘC SỐNG

Nữ sinh năm Tân Mão cuộc đời được nhiều may mắn trong vấn đề công danh cũng như về tài lộc và sự nghiệp, tuổi nhỏ tuy có nhiều lo nghĩ, nhưng cuộc sống vẫn được an toàn và có nhiều cơ hội phát triển vào thời trung vận. Đường công danh cũng có cơ hội sáng sủa. Trong cuộc đời không phải lo buồn nhiều, về mặt vật chất cũng tương đối đầy đủ.

Tóm lại: Tiền vận có một ít lo nghĩ, trung vận được sung sướng, hậu vận an nhàn, tràn đầy hy vọng. Nữ tuổi Tân Mão có cơ tạo được công danh, nếu không theo đuổi công danh thì được phần về buôn bán. Số hưởng thọ cũng khá, nếu ăn ở hiền hòa phúc đức thì sẽ được gia tăng niên kỷ, gian ác thì sẽ bị giảm kỷ, đó là luật định của tạo hóa.

TÌNH DUYÊN

Nữ tuổi Tân Mão dễ lận đận tình duyên ở tuổi trẻ, tuy nhiên sang đến giai đoạn sau thì sẽ sáng sủa tốt đẹp hơn. Nếu bạn sinh vào những tháng 3,7 và 12 âm lịch thì việc tình duyên dễ bị trắc trở lận đận nhất. Nếu sinh vào các tháng 4,5,8,11 thì cũng gặp không ít trắc trở khó khăn. Còn nếu vào các tháng 2,6,9,10 âm lịch thì cuộc đời được hưởng hạnh phúc, tình duyên khá là tốt đẹp. Ngoài ra nếu kết hợp thêm với Tử Vi thì bạn có thể chiêm nghiệm được về bản thân bạn rất nhiều.


GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Về gia đạo: Gia đạo có nhiều êm đẹp, cuộc đời được hưởng nhiều may mắn, ân huệ tốt và tình cảm đầy đủ. Nhìn chung nếu như có vấn đề lo lắng buồn phiền thì thường rơi vào thời trẻ, về trung và hậu vận thường sẽ có thể yên tâm hưởng phúc. Tùy vào Phúc Đức của họ và gia đình nhà chồng thì đường gia đạo cũng có sự tác động ít nhiều.

Về công danh: Nhìn chung Nữ tuổi Tân Mão có cơ hội theo đuổi công danh, nếu lo buôn bán giao thương thì có nhiều lợi tốt. Sự nghiệp có cơ hội tạo nên và sẽ hoàn thành sự nghiệp vào khoảng 28 tuổi trở đi.

Về tiền tài: Tiền bạc nhìn chung về trung vận có thể sẽ được dồi dào, vào hậu vận thì đầy đủ về tiền tài lẫn tình cảm. Bạn có thể dựa thêm vào lá số Tử Vi ở các cung Mệnh, Tài, Quan, Điền để biết thêm công danh tiền bạc theo hướng thuận hay xấu.

TUỔI HỢP CHO LÀM ĂN, KINH DOANH, HỢP TÁC

Chọn tuổi hợp là yếu tố rất quan trọng, mang lại thành công cho bạn cả công danh lẫn tiền bạc. Nếu bạn chọn người hợp tuổi, công việc làm ăn, kinh doanh hợp tác của bạn sẽ phát triển tốt, lâu bền và đem lại nhiều thắng lợi. Ngược lại, nếu chọn phải tuổi khắc kỵ sẽ gây ra những khó khăn, cản trở và dễ dẫn tới thất bại. Với Nữ tuổi Tân Mão, bạn nên chọn những tuổi sau trong việc hợp tác làm ăn, kinh doanh: Tuổi Tân Mão (1951, 2011), Quý Tỵ (1953, 2013), Giáp Ngọ (1954, 2014).

CHỌN TUỔI VỢ CHỒNG

Trong cuộc sống, lương duyên là vấn đề rất quan trọng. Cuộc sống có đựơc đầy đủ, công danh và sự nghiệp có phát triển lên cao hay không cũng do sự trùng hợp với tuổi vợ chồng. Đặt trường hợp mà hai tuổi vợ chồng quá xung khắc có thể làm cho sự phát triển công danh, sự nghiệp lẫn tiền tài đều bị ngưng trệ hay bị tắc nghẽn mà không phát triển. Có khi tuổi của cá nhân bạn rất tốt mà tuổi người vợ lại quá xấu cũng có thể tác động không nhỏ. Nên trong sự chọn bạn để kết hợp vợ chồng, bạn nên lựa những tuổi hợp với tuổi bạn mà kết duyên thì có thể mang lại nhiều may mắn hoặc chí ít là tâm lý tốt đẹp.

Các tuổi hợp với Nam tuổi Tân Mão gồm: Tân Mão (1951, 2011), Quý Tỵ (1953, 2013), Giáp Ngọ (1954, 2014), Đinh Dậu (1957, 2017), Kỷ Hợi (1959, 2019), Đinh Hợi (1947, 2007):
  • Tuổi Tân Mão (1951, 2011), Quý Tỵ (1953, 2013): Cuộc sống dễ tốt đẹp, tiền bạc dễ dàng và cuộc sống sung sướng.
  • Tuổi Giáp Ngọ (1954, 2014) và Đinh Dậu (1957, 2017): Có thể đem lại cho bạn một cuộc sống êm đẹp, may mắn và giàu sang phú quý.
  •  Tuổi Kỷ Hợi (1959, 2019) và Đinh Hợi (1947, 2007): Có nhiều điều kiện để tạo cuộc sống tốt đẹp, con cái đủ nuôi, tài vượng dễ phát.
Nếu bạn kết duyên với tuổi Bính Thân (1956, 2016), Canh Dần (1950, 2010) thì hợp với bạn về đường tình duyên hơn là về đường tài lộc, cuộc sống bình thường, ổn định.

Với các tuổi Nhâm Thìn (1952, 2012), Mậu Tuất (1958, 2018), Giáp Thìn (1964, 2024) thì không hợp với tuổi bạn về đường tài lộc và cả đường tình duyên, có thể khiến cuộc sống khó khăn vất vả hơn.

Những năm mà bạn ở vào tuổi: 20, 25, 26, 32, 37, 38 và 45 không tốt đối với lương duyên, bạn nên cẩn thận khi cưới hỏi vào những năm này.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Những tuổi sau đây rất đại kỵ trong cuộc đời bạn: Ất Mùi (1955, 2015), Canh Tý (1960, 2020), Tân Sửu (1961, 2021), Đinh Mùi (1967, 2027), Kỷ Sửu (1949, 2009), Mậu Tý (1948, 2008) và Quý Mùi (1943, 2003). Bạn nên xem xét kỹ những tuổi này trong hôn nhân, hợp tác làm ăn hay công việc. Nếu tuổi đại kỵ là người trong gia đình thì nên sống tốt đẹp, giữ gìn để được phù hộ.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN

Cuộc sống không bao giờ dễ dàng, giống như con đường không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Trong đời người, bạn sẽ gặp những năm rất may mắn, nhưng cũng có những năm rất khó khăn, gia đình đau buồn, công danh sự nghiệp hay hôn nhân trắc trở. Những năm có thể coi là khó khăn nhất với Nữ tuổi Tân Mão là khi bạn ở tuổi 20, 23, 25, 35 và 40. Hãy lưu ý những năm nói trên để đề phòng những bất trắc xảy ra. Sống khiêm nhường, hướng thiện cũng giúp cho bạn tốt đẹp hơn vào những năm xấu nói trên.

NGÀY, GIỜ XUẤT HÀNH HỢP NHẤT

Nếu bạn cần trong công việc làm ăn giao dịch, có những thuận tiện, mang nhiều kết quả, khỏi sợ bị thất bại, luôn luôn bạn phải nhớ ngày, giờ và tháng xuất hành cho phù hợp với tuổi bạn. Nữ tuổi Tân Mão hợp vào những giờ chẵn, ngày chẵn và tháng chẵn. Sự xuất hành làm ăn, kinh doanh bạn nên xuất hành đúng với giờ khắc và tháng sẽ giúp bạn gặp nhiều may mắn và thành công.

DIỄN BIẾN TỪNG NĂM

Từ 16 đến 20 tuổi:
  • Tuổi 16, có phát vượng về vấn đề tình cảm, tài lộc, công danh không có gì đáng nói. 
  • Tuổi 17, nhiều triển vọng về vấn đề tình cảm lẫn cuộc đời, năm này có tài lộc nhỏ vào khoảng tháng 7 và 8. 
  • Tuổi 18 là năm có phát triển về đường công danh, tài lộc có lợi, tình cảm lên cao. 
  • Tuổi 19, khả năng nghiệp có nhiều kết quả tốt, năm này kỵ đi xa vào tháng 4. 
  • Tuổi 20, phát triển mạnh về công danh cũng như về tình cảm lẫn tài lộc, tháng 10 và 12 có đại lợi.
Từ 21 đến 25 tuổi: 
  • Tuổi 21 có nhiều tốt đẹp về vấn đề tình cảm, lẫn tài lộc, cuộc sống nhiều êm đẹp và có thể tạo được cơ hội phát triển công danh hay buôn bán. 
  • Tuổi 22, có việc buồn lo, tâm trí bất an, công danh tài lộcchỉ thu được kết quả nhỏ. 
  • Tuổi 23 kỵ đi xa, công danh năm này cũng không được tốt, buôn bán hay xuất hành thì bất lợi. 
  • Tuổi 24, năm này khá tốt nếu kết hôn, làm ăn mau phát đạt. 
  • Tuổi 25, năm này kỵ kết hôn, kỵ đi xa vào tháng 8
Từ 26 đến 30 tuổi: 
  • Tuổi 26, việc làm ăn hay phát triển nghiệp được nhiều phát đạt, cuộc sống có cơ hội tạo ra nhiều tiền. 
  • Tuổi 27, năm công danh lên cao, hay buôn bán và giao thương có nhiều lợi to tát. 
  • Tuổi 28 rất tốt đẹp cho sự phát triển về nghề nghiệp lẫn cuộc đời có nhiều sung túc. 
  • Tuổi 29 có nhiều triển vọng tốt đẹp nên phát triển tiền bạc vào năm nầy thì khá tốt. 
  • Tuổi 30 có kỵ nhiều tháng, nhất là những tháng 8, 9 và 10 Âm lịch: những tháng nầy kỵ đi xa, làm ăn hay xuất phát về tiền bạc bất lợi.
Từ 31 đến 35 tuổi: 
  • Tuổi 31 có nhiều hay đẹp về vấn đề tình cảm, còn tài lộc chỉ thu kết quả đôi chút
  • Tuổi 32 và 33 có thể đau yếu, hao tài hoặc không gặp được nhiều tốt đẹp cho lắm, nên cẩn thận tiền bạc thì tốt hơn. 
  • Tuổi 34 có thể đẩy mạnh cuộc sống và nhờ sự trợ giúp của gia đình mà thành. 
  • Tuổi 35 có an vui, tài lộc tình cảm đều phát triển mạnh mẽ.
Từ 36 đến 40 tuổi: 
  • Tuổi 36 không được nhiều hay đẹp lắm, có kỵ vào những tháng 4 và 6, dễ có hao tài hay bệnh hoạn, cuộc sống năm này không mấy tốt. 
  • Tuổi 37, tình cảm và tài lộc được nhiều may mắn, năm này có sinh con thì tốt đẹp cho việc phát triển tài lộc. Tuổi 38 kỵ đi xa, buôn bán hay làm ăn giao dịch về tiền bạc sẽ bị thua lỗ, nhưng cuộc sống gia đình lại tốt đẹp. 
  • Tuổi 39, năm này làm ăn xuất hành vào những tháng đầu năm thì tốt, vào giữa năm hay cuối năm xấu. 
  • Tuổi 40, năm nay trong gia đình không được yên ấm lắm, nên nhẫn nhục để bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Từ 41 đến 45 tuổi: 
  • Tuổi 41 khá tốt, tài lộc có phần phát đạt. 
  • Tuổi 42, thành công về việc giao thương hay giao dịch, về mặt tình cảm cũng tốt đẹp. 
  • Tuổi 43 đầy đủ và gia đình có phần sung túc, kỵ tháng 7 và 9, không nên đi xa hoặc giao dịch về tiền bạc. 
  • Tuổi 44 và 45, hai năm này tình trạng gia đình cũng như việc làm ăn chỉ ở vào mức độ bình thường.
Từ 46 đến 50 tuổi: 
  • Tuổi 46 khá tốt, bản mệnh vững, kỵ tháng 2 và 4, hai tháng này trong gia đình có người bệnh, hao tài. 
  • Tuổi 47 được đầy đủ về phần gia đạo, tiền bạc có kết quả tốt, tình cảm lên cao và vượng phát. 
  • Tuổi 48, năm này phần cá nhân có đau yếu, việc làm ăn không được phát đạt cho lắm. 
  • Tuổi 49 và 50 nên cẩn thận về tiền bạc cũng như về cuộc sống, dễ có đổ vỡ bất thường.
Từ 51 đến 55 tuổi: 
  • Tuổi 51 không có gì đặc biệt. 
  • Tuổi 52 tạm tốt đẹp, những tháng 6 và 9 Âm lịch không nên đi xa, tiền bạc trung bình. 
  • Tuổi 53 có đau yếu hay gia đình, con cái có nạn. 
  • Tuổi 54 bản mệnh tốt, ít đau bệnh nhưng lại có hao tài. 
  • Tuổi 55 nên đề phòng con cái có đau bệnh hay đi xa, dời chỗ.
Từ 56 đến 60 tuổi: Khoảng thời gian nầy cuộc sống an phận, không có việc gì quan trọng xảy ra cho cuộc sống, phần tình cảm được trọn vẹn, phần bản mệnh hơi suy kém, phần tài lộc có hao hụt, phần cuộc đời vẫn êm xuôi. Tóm lại suốt năm này tuổi Tân Mão nên an phận mà thôi.

Chủ Nhật, 6 tháng 6, 2010

Luận về sao Tả Phù Hữu Bật

Tiền nhân khi luận mệnh bảo số trai cần Tả Phù, số gái cần Hữu Bật. Điều này không đúng. Tả Hữu là hai sao đi cặp thường phải đủ cả hai thì mới hoàn hảo dù rằng mỗi sao có một đặc tính riêng biệt. Tả và Hữu đều an qua tháng sinh.

Tả Phù thuộc dương thổ, hóa khí là “hỉ”. Thổ của Tả Phù là Thìn thổ hay đông phương thổ, đất màu mỡ, xốp cho nên tính tình đôn hậu, ẩn trọng, phân minh rộng rãi, nhưng cũng có mưu lược. Thìn cung là thủy khố nên thổ lúc nào cũng nhuận thuần, nên tài hoa mà không bừa bãi.
Tả Phù ẩn trọng không hợp với thương trường xông xáo. Khởi nghiệp không giỏi bằng giữ nghiệp. Tả Phù giao thiệp dễ được lòng người bởi thái độ khoan dung, ăn nói trầm ấm. Bởi vậy Tả Phù rất sợ bị sát tinh xung phá.

Tả Phù đứng với Liêm Trinh là phá cách thường gặp quan tụng bất chợt, thêm Kình Dương càng rắc rối. Tả Phù không hợp với Cự Môn và Phá Quân, vì Cự Môn chủ thị phi còn Phá Quân chủ bạo loạn. Gặp Phá Quân Kình Dương sẽ theo con đường phản loạn như cổ nhân nói: “Phá Kình Tả Hữu chớ ngờ. Gặp thời biến động ắt là loạn quân”. Gặp Cự Môn thì thành nhiễu sự. Gặp Kình Dương trở nên xung động kém sáng suốt, dễ bị lợi dụng.

Hữu Bật thuộc âm thủy giữ chế lệnh chủ về thiện. Hữu Bật khởi từ cung Tuất vì Tuất ở Tây Bắc phương vào buổi thu, thời tiết thâu liễm, Hữu Bật chấp hành trách nhiệm thâu liễm ấy nên mới nói là giữ thế lệnh. Khi đã bảo là chế lệnh tất phải ép buộc . Tuất là hỏa khố, Hữu Bật loại thuộc thủy, thủy hỏa giao chiến không dung hòa dễ dàng. Cho nên tính tình Hữu Bật nóng nảy, kiên cường, ưa can thiệp khác với Tả Phù vốn ẩn trọng. Nhưng khi có cả Tả lẫn Hữu thì tùy theo sao chủ, Tả Hữu sẽ biến đổi bản chất để thi thố.

Trên khả năng thì Tả với Hữu giống nhau. Ở điểm này Tả Phù lực chủ động mạnh hơn Hữu Bật. Ẩn trọng tất nhiên chủ động hơn nóng nảy. Tả Hữu là hai sao phò tá cần phải dựa vào chủ tinh để hành động.

Tiền nhân coi Tả Hữu là hai quan lộc tinh, Tả Phù chính, Hữu Bật phó. Tả Phù tiến thân theo đường chính, Hữu Bật theo dị lộ. Trung Châu phái bên Trung Quốc đưa ra lập luận: Tả Phù chủ về sang quí, trong khi đó Hữu Bật chủ về giàu có.

Đẩu Số Toàn Thư viết: “Tả Hữu đồng cung, phi la y tử” (Mệnh có Tả Hữu đứng cùng áo tía lọng vàng) câu trên rõ ràng về hình ảnh công danh. Vấn đề áo tía lọng vàng không phải chỉ Tả Hữu đồng cung mà thành, còn tùy thuộc vào đồng cung với sao chủ nào? Và có bị hung sát tinh đánh phá hay không? Các câu phú khác như: “Tả Hữu đồng cung thân vô hoạnh lự”. Tả Phù Hữu Bật chung thân phúc hậu, cùng một qui luật cũng phải xem xét như trên.

Sự phối trí của Tả Hữu đẹp nhất là vào các cung: Mệnh, Tài Bạch, Quan Lộc. Nếu các chủ tinh ưu tú thì cuộc đời hanh thông với địa vị, với phú quí. Hay nhất Tả Hữu đứng cùng hoặc hiệp hội với Tử Vi Phá Quân, nếu không bị xung hung sát phá thường là người sáng tạo sự nghiệp

Trường hợp vừa Tả Hữu, vừa Xương Khúc hội tụ lại càng cần có chủ tinh của Mệnh cung hợp cách mới tốt. Chủ tinh xấu thì cuộc đời thăng trầm, mà số nữ biến ra thành hồng nhan mệnh bạc.

Trường hợp Tả Hữu gặp Khôi Việt vẫn tiếp tục xem chủ tinh tại mệnh thế nào? Nếu hợp cách thì chỉ sang quí địa vị thôi, không giàu có. Ta thấy Tả Hữu hội hợp với Khôi Việt tốt hơn hội hợp với Xương Khúc.

Tả Hữu hội hiệp một đứng ở Tài Bạch và một đứng ở Quan Lộc chiếu về Mệnh tốt hơn đồng cung tại Mệnh vì đồng cung vất vả hơn hội hiệp. Đồng cung phải tự mình, hội hiệp thì được người giúp và hoàn cảnh đỡ nâng.

Tả Hữu từ cung Tài Bạch gặp Hóa Lộc giàu có. Tả Hữu từ cung Quan Lộc gặp Quyền Khoa sang quí. Vẫn tiếp tục theo qui luật tùy thuộc vào chủ tinh

Trường hợp Mệnh không chính tinh chỉ có Tả Phù Hữu Bật thủ mà nhìn sang cung Phụ Mẫu thấy Hỏa Linh qua kinh nghiệm thường là con nuôi hay con của dòng thứ nhất hoặc có cha kế, mẹ kế.

Phu Thê cung mà chỉ thấy có một Tả Phù hay một Hữu Bật thôi kể như xấu, hay đưa đến cuộc duyên tay ba. “Hữu Bật hội Phu cung, vi nhân hữu tiền tình chi phận” (Hữu Bật đóng cung Phu hoặc mình có chồng trước, hoặc chồng có vợ trước). Nếu cung Phu Thê có Cự Môn và Cự Môn Hóa Kị tình hình duyên phận càng nghiêm trọng cho sự băng hoại hơn nữa.

Tả Hữu rất không ưa Linh Hỏa. Mệnh cung hoặc Phu cung mà thấy Tả Hữu Linh Hỏa dễ làm thứ, làm lẽ mọn. Tuy nhiên vẫn còn cần tham khảo chủ tinh trước đã.

Trường hợp Tả Hữu một ở Mệnh, một ở Phu Thê cung thấy cả Sát Kị thì bất luận nam hay nữ đều vài bận kết hôn. Nếu có thêm Đào Hoa thì đưa tới ngoại tình. Có câu phú rằng: Sao Tả Hữu đồng cung, gặp gỡ Mệnh Đào Hoa trước dở sau hay, ý nói hai bận lấy chồng. Tuy nhiên nguyên nhân tan vỡ thường là một vụ ngoại tình do chồng hay vợ.

Trường hợp Tả Hữu một vào Mệnh cung, một vào Phúc Đức cung, hôn nhân không suôn sẻ do bị ép uổng, hoặc vợ hay chồng đau ốm triền miên, ta vẫn thường gọi là “bạc phước” vậy. Trường hợp này tính hay hay dở của chủ tinh vẫn giữ vai trò quan trọng cho luận đoán.

Với số nữ Tả Hữu không nên đứng cùng với Tham Lang Phá Quân Thất Sát dù ba sao này đắc địa, vì như thế tình cảm không chuyên nhất. Về câu phú: “Tả Hữu Xương Khúc ngộ Kình Dương Đà đương sinh dị chí” (Tả Hữu Xương Khúc gặp Dương Đà có nốt ruồi lạ). Điều này qua kinh nghiệm không mấy chính xác. Đôi khi “dị chí” là cái bớt chứ chẳng phải nốt ruồi

Những câu phú cần biết về Tả Phù Hữu Bật:

- "Hữu Bật phùng Quả Tú tất dã trường sinh
Tả Phù phùng cát tinh bất vi yểu chiết"

(Sao Hữu Bật hội Quả Tú ở Mệnh thì sống thọ)

- Phụ Bật phùng Thiên Tướng đích thị lương y
(Thiên Tướng gặp Tả Hữu làm nghề thầy thuốc giỏi)

- Tả Hữu đơn thủ, chiếu Mệnh ly tông thứ xuất
(Một sao Tả hay Hữu ở Mệnh hay chiếu Mệnh vô chính diệu thì là con bà thứ và phải xa rời quê quán)

- Tả Hữu Trinh Dương tao hình lục
(Liêm Trinh hội Tả Hữu Kình Dương hay vướng vào tù tội)

- Hữu Bật Thiên Tướng phúc lai lâm
(Thiên Tướng tại Mệnh được Hữu Bật thường gặp may mắn)

- Phụ Bật ái nhập mộ cung, nhược phùng đế tượng, văn đoàn, võ cách hoạnh phát tài danh
(Tả Hữu đóng Thìn Tuất Sửu Mùi gặp Tử Vi hay Cơ Nguyệt Đồng Lương hoặc Sát Phá Tham có cơ hoạnh phát công danh tài lộc)

- Tả, Phủ đồng cung tôn cung vạn thừa
(Tả Phù đứng cùng Thiên Phủ là người có chức vị cao)

- Tả Hữu Tài Quan kiêm hiệp củng, y lộc phong doanh
(Tả Hữu hội hiệp ở Tài, Quan tiền tài sung túc)

- Phụ Bật giáp Đế phúc lai lâm
(Tả Hữu giáp Mệnh cung có Tử Vi thì vinh hiển)

- Phụ Bật vị Phu cung vi nhân hữu tiền tình chi phận
(Hữu Bật đóng Phu làm vợ bé)

- Tả Hữu tại Phu cung, vô môi tự giá
(Phu cung thấy Tả Hữu thì theo trai mà thành chồng vợ)


- "Phụ Bật Thiên Phúc đồng viên
Ngôi danh chính viện danh truyền y quan"

- "Phụ Bật gặp Thái Âm nhàn
Số làm bà đỡ cứu phường sơ sinh"

- "Mộ phùng Tả Hữu đồng lai
Thăng quan tiến chức miếu đài rạng danh"

- "Giáp Long giáp Phượng đôi nơi
Tả Hữu Thai Tọa lâu đài thiếu niên"

- "Tả Hữu đắc vị đồng sang
Ấy là được cách thanh nhàn hiển vinh."

- "Cự Cơ hợp Khúc Xương Tả Hữu
Ở Mão cung rạng rỡ công danh"

- "Lộc Tồn ám tật miên trường
Khúc Xương Tả Hữu tai ương phải phòng"
(Nói về Tả Hữu Khúc Xương ở Tật Ách)
- "Vũ Tướng Tả Hữu đồng lưu
Nhất hô nhất nặc ai đâu dám bì."
(Nô Bộc có Vũ Tướng Tả Hữu thì tay đàn em đắc lực)

Luận về Xương Khúc

Khi có cả Xương lẫn Khúc hoặc đồng cung hoặc do tam hợp chiếu hiệp lại thành ra cách cục riêng biệt. Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi rất cần được Thái Âm Thái Dương tức cách cục Âm Dương Xương Khúc. Cổ nhân có câu phú: “Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa”. (Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc cao sang) con người thông minh nhiều thiện cảm và may mắn với điều kiện là không bị Hóa Kị chen vào.



Văn Khúc Hóa Kị tâm ý bi quan. Văn Khúc Hóa Kị quá nhậy cảm mà không thích ứng được với đời (người và hoàn cảnh)

Xương Khúc ở Sửu Mùi gặp Thiên Lương rất tốt, chuyển Thiên Lương thành danh lợi giỏi giang. Xương Khúc Sửu Mùi đi với Vũ Khúc Tham Lang tạo nên khả năng lãnh đạo, chư cổ nhân nói: “Văn Vũ kiêm tư”

Xương Khúc đứng cùng Tử Vi Phá Quân cho sáng tạo lực, thêm quyền biến. Xương Khúc Sửu Mùi mà gặp Cự Môn Thiên Đồng rất dở. Cự Đồng Xương Khúc hay vướng tình lụy, dễ thất vọng, chí phấn đấu cùn nhụt, hiếu sắc ham chơi, suy tư viển vông.

Xương Khúc Sửu Mùi đi cùng Thiên Cơ nói hay, làm dở, đầu óc thiếu thực tế. Xương Khúc Sửu Mùi hội Liêm Trinh, Thất Sát thì khoa trương hão huyền. Xương Khúc hội hiệp với Thiên Tướng thông minh nhưng thiếu định kiến, vui đâu chầu đấy, dễ dao động trước sự việc. Xương Khúc hợp với Tử Vi Phá Quân khiến cho khí chất thuần hòa. Xương Khúc gặp Thiên Phủ thì ôn hậu, sáng suốt.

Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư chương Đẩu số phát vi luận viết: “Xương Khúc tại hung hương, lâm tuyền lãnh đạm” nghĩa là Xương Khúc hãm gặp Không Kiếp thì chán nản việc đời muốn ở ẩn.

Những câu phú cần tham khảo về Văn Xương, Văn Khúc:

- "Tam hợp Văn Khoa củng chiếu
Giả Nghị thiếu niên đăng khoa"
(Xương Khúc tam hợp chiếu với Hóa Khoa Giả Nghị ngày xưa đỗ đạt sớm. Danh từ Văn Khoa chỉ vào Xương Khúc và Hóa Khoa)

- Xương Khoa tịnh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần
(Xương Khúc ở thế hãm danh phận lao đao, nên vào kinh thương hơn là theo đuổi chức vụ)

- Nhị Khúc miếu viên phùng Tả Hữu, tướng tướng chi tài
(Văn Vũ Khúc đóng miếu địa có tài lãnh đạo nếu có luôn cả Tả Phù Hữu Bật)

- Nữ Mệnh Xương Khúc thông minh phú quí chỉ đa dâm
(Mệnh nữ có Xương Khúc thông minh phú quí giàu sang nhưng đa dâm)

- Vũ Khúc Kình Dương Hỏa Linh Kị, nhược bất vi sương tất yểu triết
(Văn Xương gặp Hỏa Linh Kình Dương Hóa Kị, luân lạc hoặc khó thọ nhất là đối với nữ mạng)

- Khôi Xương Tả Hữu tương hội hợp, phụ long phan phượng thượng cửu trùng
(Mệnh có Thiên Khôi, Văn Xương, Tả Hữu thường gặp quí nhân mà nên danh phận. Số nữ lấy chồng quyền thế cao sang, giàu có)

- Văn Hao cư Dậu Mão chúng thủy triều đông
(Văn Khúc đứng với Phá Quân ở Mão Dậu lên voi xuống chó. Phá Quân thuộc thủy, Văn Khúc cũng thuộc thủy nên gọi bằng chúng thủy)

- Xương Khúc cát tinh cư Phúc Đức, vị chi ngọc tụ thiên hương
(Xương Khúc cùng với cát tinh đóng Phúc Đức là cách ngọc tụ thiên hương nên danh nên giá. Cách ngọc tụ thiên hương chỉ ở trường hợp Mệnh đóng ở Hợi hoặc ở Tỵ mà có Xương Khúc tại Sửu hay Mùi đi cùng với các sao tốt khác không bị hung sát tinh xung phá)

- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi tạo hình, bất thiện thả hư khoa
(Xương Khúc đứng với Liêm Trinh ở Tỵ Hợi dễ tù tội, bản chất gian giảo, hay nói một tấc tới trời)

- Xương Khúc Phá Quân lâm hổ thỏ Sát Dương xung phá bôn ba
(Xương Khúc đứng với Phá Quân ở Dần Mão, bị Kình Hỏa hay Hóa Kị suốt đời bôn ba)

- Xương Khúc nhập Mệnh thanh tú nhã chi lang
(Xương Khúc hội hợp hay thủ Mệnh có duyên và phong nhã, đàn bà nhan sắc)

- Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng
(Văn Xương Văn Khúc thủ mệnh hiếu học và đa năng)

- Xương Khúc Sửu Mùi Giáp nhân dương nữ kiêm phùng Hồng Lộc hiền phụ chi nhân
(Mệnh đóng Sửu Mùi có Xương Khúc tọa thủ thêm Hồng Loan, Hóa Lộc đàn bà tuổi Giáp là bậc hiền phụ)

- Xương Khúc phùng Tuế Dương thiện ác tụng sự
(Xương Khúc thủ Mệnh hội Kình Dương Thái Tuế giỏi lý luận, có thể là nhà hùng biện hay, luật sư giỏi)

- Văn Xương phùng Quả Tú Trương Đế Sư bộ bộ tầm tiên
(Mệnh có Văn Xương Quả Tú, như người họ Trương sống ẩn dật)

- Văn Khúc hí Nguyệt ư Hợi cung quốc sắc thiên hương
(Văn Khúc đứng với Thái Âm tại Hợi đàn bà nhan sắc lộng lẫy)

- Văn Khúc đồng Hóa Kị hạn phòng yểu tử chi ưu
(hạn thấy Văn Khúc Hóa Kị đề phòng yểu tử)

- Văn Xương cư Ngọ ký viết khốn, đắc thủy diệu chung thành đại khí
(Văn Xương đóng Ngọ xấu, nhưng gặp được thủy diệu (sao thuộc thủy) lại nên hay)

- Nữ Mệnh phùng Xương Riêu nhất sinh dâm đãng
(Số nữ Văn Xương đứng với Thiên Riêu dâm đãng)

- Xương Khúc Lộc Tồn do vi kỳ đặc
(Mệnh Xương Khúc Lộc Tồn khả dĩ kể là kỳ cách)

- Xương Khúc Cơ Lộc thanh tú sảo
(Mệnh Xương Khúc Thiên Cơ Hóa Lộc tinh xảo nghề nghiệp nhất là những nghề có dính líu đến nghệ thuật)

- Khúc Xương Nhật Nguyệt song Long mê sắc Dương Phi
(Mệnh có Nhật Nguyệt Xương Khúc Long Trì Thanh Long thì đẹp mê hồn như Dương Quý Phi).

- Xương Khúc giáp Quan Lộc định tác cao khoa
(cung Quan Lộc giáp Xương giáp Khúc thì đỗ cao)

- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi phùng Hình Bật, thiện thả hư khoa
(Xương Khúc gặp Liêm Trinh ở Tỵ Hợi mà được thêm Thiên Hình, Hữu Bật kể là người có tài năng, nhưng không nên công nên việc)

"Khúc Xương nữ mệnh chẳng lành
Vườn xuân ong bướm bẻ cành bán rao"
(Chỉ bẻ cành bán rao nếu thấy Thiên Riêu đi cùng Hóa Kị)

- Văn Xương triều Nhật ư Ngọ vị phong trần địa bộ thế nan nhân
(Thái Dương tại Ngọ thủ Mệnh đứng cùng Văn Xương xung chiếu là con người lịch duyệt phong trần ít ai bì kịp)

- Xương Khúc giáp Nhật nam mệnh quí nhi thả hiển
(Nam mạng Thái Dương đắc địa, có Xương Khúc giáp Mệnh thì sang trọng, hiển đạt)

 "Khúc Xương là đấng thanh nhàn
Thật thà đứng đắn là làng Đồng Lương"

"Khúc Xương Thương Sứ hợp bài
Phải phòng tai họa bên ngoài bên trong"
(Xương Khúc đóng ở Nô (gặp Thiên Thương) hay ở Tật Ách (gặp Thiên Sứ) hay có họa đến bất ngờ)

"Xương Khúc Phá gặp Hình Kiếp Sát
Chốn Mão Thìn Dậu Tuất lao đao"

"Mấy người hiếu sắc hoang tình
Vì Xương Khúc đóng bên mình Riêu Y"

"Khúc Xương Sửu Mùi hợp thành
Nếu không cát diệu hữu danh vô dùng"
(Xương Khúc Mùi Sửu mà không gặp những cát tinh khác thì chỉ có tiếng mà không có miếng)

"Thói dâm dật xướng hòa kém phúc
Ấy Văn Xương, Văn Khúc ai khen"

"Vũ không gặp đất miếu viên
Khác chi Xương Khúc gối loan lạnh lùng"

"Phượng Long nhan sắc dịu dàng
Khúc Xương Tả Hữu ấy làng tài hoa"

"Thê cung Nguyệt, Khúc trung tàng
Ra tay bẻ quế đông sang thiềm cung"

"Thê cung Xương gặp tam Không
Con nhà danh giá tổ tông kết nguyền"

- "Khúc Xương Thái Tuế cùng ngồi
Chưa ngoa miệng lưỡi con người đa ngôn"
(cung Mệnh số nữ có Xương Khúc Thái Tuế chua ngoa, nói nhiều nhưng có duyên, ở Thê cung thì bà vợ đa ngôn)

- "Vũ Tham tài phát phương ngoài
Khúc Xương Tả Hữu gặp người quí nhân"
(Câu trên nói về Xương Khúc đóng cung Thiên Di)

- "Khúc Xương Long Phượng phát văn
Vũ Tham Sát Phá thì rằng võ công"
(câu này nói về Xương Khúc đóng Quan Lộc)

- "Tử cung mà gặp Khúc Xương
Tuồng gì con gái những phường chơi hoang"
(cung Tử Tức này còn phải thêm Thiên Riêu hay Hóa Kị nữa mới như vậy)

- "Vũ Xương hoặc Khúc cùng ngồi
Sinh con xinh đẹp hơn người chẳng ngoa"

- "Khúc Xương Tả Hữu có dư
Thiên Đồng bạch thủ cơ đồ lại nên"
(câu trên đây nói về Xương Khúc vào cung Tài Bạch)

- "Tấu Thư Xương Khúc rành rành
Vào cung Điền Trạch ắt sanh tiền tài"

- "Tấu Thư Xương Khúc tương phùng
Tôn thân có kẻ thần đồng hiện ra"
(câu này nói về Xương Khúc đắc địa đóng cung Phúc Đức)

- "Khôi Khoa Xương Khúc Tấu Thư
Phát đà văn học có dư anh tài"
(cũng ở cung Phúc Đức)

- Văn Xương dữ Thất Sát Liêm Trinh Dương Đà đồng cư vi trá ngụy
(Văn Xương đứng cùng Liêm Sát Dương Đà là con người trá ngụy)

- Văn Khúc Cự Môn đồng cung táng trí
(Văn Khúc đứng cùng Cự Môn ở một cung hay nản chí, có thể vì lý luận quá mức mà chùn bước trước hành động)

- Văn Khúc đan cư Mệnh Thân cung, cánh phùng hung diệu vô danh thiệt biện chi đồ
(Văn Khúc đóng ở Mệnh Thân gặp sao hung chỉ là anh lẻo mép, chẳng làm được chuyện gì)

- Văn Khúc Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo
(Văn Khúc đứng với Tham Lang tại Mệnh ưa dùng ngụy biện phá rối kỷ cương)

Luận về sao Văn Khúc

Văn Khúc cũng là sao chủ về khoa danh nhưng khác biệt với Văn Xương. Văn Xương ưa theo đường chính để xuất thân. Văn Khúc có khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Xương giỏi “nghệ”, Văn Khúc tinh thông “thuật”. Văn Xương sáng tác, Văn Khúc nghiên cứu. Văn Xương tinh thông văn tự từ chương, Văn Khúc nói giỏi thuyết giỏi. Văn Xương làm thơ làm văn hay, Văn Khúc phê bình sắc sảo.

Văn Khúc nếu nghiên cứu thuật số hợp hơn Văn Xương. Căn cứ vào câu “Văn Khúc Thái Âm cửu lưu thuật sĩ” viết trong Đẩu Số Toàn Thư. Cả Văn Xương lẫn Văn Khúc đều sợ sao Hóa Kị, nhưng Văn Khúc gặp Hóa Kị đáng ngại hơn Văn Xương.

Sách ghi: “Văn Khúc thuộc âm thủy, chủ khoa giáp thanh danh, và là tay ăn nói biện thuyết có tài. Vì Văn Khúc thuộc thủy nên cơ trí quyền biến hơn (thủy chủ trí) tài trí biến động lưu loát như dòng thác lũ. Bởi vậy nếu đóng ở Thìn, cái trí tuệ ấy sẽ bị câu thúc bất lợi với khả năng thi triển. An sao Văn Khúc khởi từ cung Thìn vì Thìn là thủy khố, Văn Khúc phải đi khỏi thủy khố thì mới vẫy vùng.

Văn Khúc đi cùng Kình Dương khả năng phê phán càng bén nhạy trên bản chất vốn là đao, tên. Nữ mệnh kị Văn Khúc vì Văn Khúc thuộc thủy lại gặp thêm một sao thủy khác biến thành “thủy tính dương hoa” ướt át với tình, sống trong ảo tưởng dễ trở thành phong trần.

Mệnh Tử Vi Tham Lang ở Mão mà gặp luôn cả Văn Khúc Hóa Kị thường là cách của con người ham cờ bạc mà dạc dài. Với cách Vũ Tham ở Sửu Mùi, gặp Văn Khúc Hóa Kị cổ nhân cho rằng đó là cách “nịch thủy chi ưu” (có nỗi lo chết sông nước).

Văn Khúc Hóa Kị cũng biến thành ám diệu cho Phá Quân trong câu phú: “Phá Quân ám diệu cộng hương thủy trung tác tủng” đã nói ở trên.

Văn Khúc như Văn Xương mang tính chất đào hoa mà lại gặp các đào hoa tinh càng làm tăng tính chất ấy. Nếu biết đi vào nghề nghiệp để tiếp xúc với nữ phái thì chất đào hoa sẽ tan biến vào nghề nghiệp nhờ vậy khả dĩ thành công. Nhưng khi Văn Khúc đứng với Thiên Đồng hay Cự Môn thì thường bị khổ vì tình, số nữ phiền lắm.

Do cái tài ăn nói mà Văn Khúc gần cận người khác phái. Những sao hợp với Văn Khúc là Thiên Lương Tử Vi Thiên Phủ. Những sao này được Văn Khúc thì thông tuệ. Riêng Liêm Trinh đứng với Văn Khúc lại biến ra con người khẩu thiệt gian hoạt. Nữ mệnh Xương Khúc đi với Liêm Trinh dễ lưu lạc phong trần nếu gặp cả Linh Hỏa. Tại sao vậy?

Vì Xương với Khúc đều là dịch mã tinh, ưa thay đổi, di động, tính tình không an định, mừng giận vô thường. Như thế là không chung tình. Thêm Linh Hỏa, những hung sát tinh ấy chuyển tình trạng không chung tình vào phong trần.

Luận về sao Văn Xương

Văn Xương chủ về khoa giáp (đỗ đạt) hãm địa là ba cung Dần, Ngọ, Tuất thuộc âm kim, còn có tên là Văn Quí liên hệ đến thanh danh con người Thái Âm. Ở các cung khác thì thông minh, ít nhiều dính líu tới “văn”

Nếu có đủ cả Văn Xương, Văn Khúc vào Mệnh cung mà sao Thiên Tài thủ Mệnh tất trí tuệ vượt thiên hạ, gặp luôn Tấu Thư, Bác Sĩ rất thuận lợi trên thi cử. Nếu như Mệnh cung chỉ có Văn Xương, không Văn Khúc cũng không có Hóa Khoa thì chỉ thông minh thôi, không nhất định dễ dàng với khoa danh thi cử.

Xương Khúc hội Long Trì Phượng Các tay nghề khéo, kỹ năng giỏi. Xương Khúc tại Mệnh cung thường dễ được người khác phái mến chuộng do duyên dáng, tinh anh, tán hay. Nếu Xương Khúc đi với Thiên Đồng, Thiên Cơ, Tử Vi càng gần cận nữ phái.

Văn Xương khởi từ Tuất vì Tuất là hỏa khố, kim được hỏa luyện mà nên thép tốt khiến cho lời nói lập luận sắc bén hay dùng ẩn ý. Văn Xương đóng Sửu Mùi (hai cung mộ khố) thì tài hoa với khả năng tổ chức chu đáo, phản ứng và quyền biến. Nhưng Văn Xương cũng mang cái bệnh ảo tưởng hoặc quá lý tưởng, vì ảo tưởng quá lý tưởng mà đôi khi tâm tình lãnh đạm trong việc đối xử giữa người với người. Văn Xương đi cùng với Hóa Kị lại chuyển ra ngôn quá kỳ thực mặc dầu trước sau vẫn là có tài cán.

Văn Xương đi cặp với Thái Dương Thiên Lương Hóa Lộc Lộc Tồn tức cách Dương Lương Xương Lộc rất lợi với việc thi cử khoa danh. Trường hợp thiếu Lộc lại gọi bằng Thái Dương Ấm Phúc, Thiên Lương là Ấm còn Thiên Đồng là Phúc thì vấn đề đỗ đạt cũng dễ dàng.

Cách Dương Lương Xương Lộc chỉ ở hai cung Mão Dậu mới là chính, nếu ở Thìn Tuất không kể là chính chỉ là thiên cách vì Văn Xương Tuất Thìn lạc hãm, thiên cách không bằng chính cách. Nhỡ mà gặp luôn cả Hóa Kị thì thành phá cách, có tài mà không có phận, cuộc đời lưu ly vất vả và sinh bất phùng thời.

Về sao Văn Xương có một cách cục thật xấu ấy là: “Linh Xương Đà Vũ”. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết: “Linh Xương Đà Vũ hạn chí đầu hà” (Vận gặp Linh Tinh, Văn Xương, Đà La, Vũ Khúc đâm đầu xuống sông mà chết). Cách này thường hiện lên ở hai cung Thìn Tuất ý chỉ sự thất bại dữ dội, mấy chữ đâm đầu xuống sông mà chết chỉ cốt vẽ nên hình tượng đáng ngại của thất bại ấy vậy. Nếu không Đà thì bị Hóa Kị, nếu không phải Vũ Khúc mà bị Liêm Trinh cũng ảnh hưởng tai hại như nhau.

Như trên đã nói, Văn Xương khả dĩ biến thành đào hoa, bởi vậy cổ nhân mới nói nữ mạng kị gặp Xương Khúc. Văn Xương không hợp với Liêm Trinh hay Tham Lang. Cốt Tủy phú ghi: “Xương Tham cư Mệnh phấn cốt toái thi” (Mệnh thấy Tham Lang Văn Xương thịt nát xương tan) ý nói về tâm ý quá đam mê tình ái mà vướng lụy tình. Không hiểu tại sao câu phấn cốt toái thi qua Việt Nam lại biến thành “phấn cốt túy thi” theo cái nghĩa mặt lang beng? Về lang beng sách chỉ ghi rằng: “Văn Xương tại vượng cung đa dị chí hãm địa đa ban ngân, nghĩa là ở vượng cung thì có nốt ruồi lạ, đóng hãm địa da có vết loang, không hẳn là lang beng hay bạch tạng gì cả.

Đàn bà Xương Khúc lãng mạn, đa tình hiếu sắc, cổ nhân nói: Dương phi hiếu sắc tam hợp Văn Khúc, Văn Xương (Dương Quí Phi đa dâm bởi vì tam hợp vào Mệnh có Xương Khúc)

Còn một câu khác: “Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh táng mệnh yểu niên” nghĩa là Văn Xương Văn Khúc gặp Liêm Trinh không thọ. Không thọ vì mê đắm hoan trường mà khó tạo sự nghiệp rồi sức lực suy vi. Liêm Trinh ở câu này là Liêm Trinh ở Tỵ Hợi đứng cùng Tham Lang chứ không phải Liêm Trinh đứng với những sao khác hay đứng một mình. Văn Xương Văn Khúc gặp Liêm Phá không gây ảnh hưởng hoại mạnh như gặp Liêm Tham Tỵ Hợi.

Luận về sao Phá Quân

Tiền nhân khi luận về sao Phá Quân thường chê bai. Như trong Đẩu Số Toàn Thư Viết:”Phá Quân thủ Mệnh là con người bạo hung gian trá, tính gian hoạt, không hợp với ai, làm việc gì chỉ chực ăn người, không ưa điều thiện, thích hùa vào việc ác, coi lục thân như người dưng, cốt nhục vô tình vô nghĩa”.

Nói tóm lại, Phá Quân không có điểm nào gọi là tốt, phải. Luận như vậy thiên lệch không chính xác. Ngoài ra cũng ở sách trên có hai điểm lầm khi viết:”Gặp Thiên Phủ trở thành gian ngụy, hội Thiên Cơ thì sinh trộm cắp”. Làm thế nào mà an sao Phá Quân gặp Thiên Phủ với Thiên Cơ được?

Lại viết ”Chỉ có Thiên Lương mới giải được cái xấu, Lương Lộc mới làm vơi đi chất ngông cuồng”. Phá Quân cũng không thể đứng cùng Thiên Lương hay hội hiệp với Thiên Lương. Chỉ có thể rút tỉa được một điểm đúng ấy là: Phá Quân cần Lộc, Lộc Tồn hay Hóa Lộc căn cứ trên câu: “Lục Giáp lục Quí sinh nhân hợp cách, chủ phú quí”

Lục Giáp Phá Quân Hóa Quyền, lục Quí Phá Quân Hóa Lộc.
Theo kinh nghiệm thì Lộc thuận lợi hơn Quyền. Quyền làm cho bôn ba hơn, Lộc thì yên ổn.

Phá Quân hội Lộc đi cùng Tham Lang (trường hợp tuổi Kỷ) hoặc gặp Hóa Lộc đứng cùng (tuổi Quí) thì không nên có Thiên Mã. Lộc với Mã vốn là một cách hay gọi là Lộc Mã giao trì, riêng với Phá với Tham thì lại không hay.

Sách Đẩu Số Toàn Thư đưa ra câu phú: “Phá Quân Tham Lang phùng Lộc Mã, nam lãng đãng nữ đa dâm”. Tại sao vậy? Vì bản chất Phá Quân đã ưa thay đổi, thích xáo trộn nếu còn thêm Lộc Mã thì càng nặng ý phiêu lưu, chỉ biết phát triển chỉ biết bốc trời mà không biết củng cố. Nói tóm lại chẳng khác gì chiếc xe không có thắng thì khó mà nên công trạng sự nghiệp hẳn hòi, rơi vào tình cảnh vung tay quá trán.

Nữ Mệnh Phá Tham Lộc Mã ham của lạ, bỏ cái tốt sẵn có đi tìm cái mình tưởng tượng là tốt hơn. Đang gia đình yên ấm lại mơ tưởng một cuộc phiêu lưu không rõ sẽ đưa mình tới đâu. Người đàn bà này làm nhân vật tiểu thuyết thì vui mà làm vợ trong cuộc sống thực tế tất sinh phiền nhiễu dở dang duyên tình.

Phá Quân làm bừa ít suy nghĩ chín chắn, bỏ cái tốt đi vào cái xấu, manh động nếu gặp luôn cả Thiên Mã đi cùng Lộc Tồn hay Hóa Lộc.

Phá Quân có những thế đứng sau đây: đứng với Liêm Trinh tại Mão Dậu, với Tử Vi ở Sửu Mùi, đứng một mình ở Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân, đứng với Vũ Khúc ở Tỵ Hợi. Phá Quân hãm đáng ngại nhất là đóng ở Mão Dậu, rồi mới đến Dần Thân.

Liêm Phá tại Dậu Mệnh hay Thiên Di mà gặp Thiên Hình Hóa Kị thế nào cũng bị những thất bại, hoạn nạn đến bất ngờ. Liêm Phá Hóa Kị mà không bị Thiên Hình Hỏa Tinh có lúc bạo phát, nhưng rồi chuyển sang bạo hại. Hễ đã phát rồi thì nên đổi nghề chuyển những tiền bạc đã kiếm qua một công chuyện khác hẳn nghề nghiệp cũ thì còn bảo vệ được, nhược bằng tiếp tục tất có ngày mất hết. Liêm Phá tại Mão cũng vậy nhưng không mạnh bằng tại Dậu. Phá Quân không hợp với Văn Xương, Văn Khúc.

Sách viết: “Phá Quân dữ văn tinh thủ mệnh nhất sinh bần sĩ” (Nếu Phá Quân thủ Mệnh cùng với Xương hoặc Khúc thì cả đời làm bần sĩ, có hay có giỏi mà không thành đạt). Nhưng Phá Quân đóng Mão cung được Văn Xương Hóa Khoa lại biến thành một cách khác gọi là “phản cách”, đột nhiên có người đề bạt mà bốc lên khiến thiên hạ kinh ngạc, có điều rồi cũng không bền, một thời gian ngắn làm mưa làm gió thôi.

Bạo phát bạo bại không chỉ với Phá Quân Mão Dậu mà còn với cả Phá Quân Sửu Mùi khi nó đứng bên Tử Vi. Nếu nhiều sao tốt triều củng thì Tử Phá có thể giành được chức quyền lớn, nhất là vào chính trị hay quân giới (đã nói ở mục luận về sao Tử Vi)

Nhưng Tử Phá cũng chịu qui luật gần giống như Liêm Phá, nghĩa là biết công thành danh thoái thì danh mới còn, của mới bền. Ngoài ra nếu Tử Phá hội với Xương Khúc Hóa Khoa Khôi Việt cũng bỗng nhiên do người đề bạt mà thăng cao, rồi khi mất chỗ dựa xuống dốc.

Phá Quân đi với Xương Khúc dù là Tử Phá hay Liêm Phá dễ vướng hận tình. Có câu phú: “Phá Quân xung phá văn tinh tam canh bảo vân song chi hận”. (Phá Quân xung phá Xương Khúc, đêm đêm ôm hận tình, đa tình và đam mê rồi thất bại trên tình trường mà thành hận. Bị vợ bỏ, người yêu cho rơi hoặc vợ cho mọc sừng).

Ba hung tinh Thất Sát, Tham Lang, Phá Quân có chung một tính chất là biến hoá thì Phá Quân là biến hóa hơn hết, biến hóa trên gặp gỡ tế ngộ, biến hóa trên hoàn cảnh (hôn nhân, giáo dục, công tác, sự nghiệp, tài sản). Biến hóa không chỉ do hoàn cảnh mà ngay cả trong tâm ý, tư tưởng và quan niệm.

Người thủ Mệnh Phá Quân có thể do lúc nhỏ không chịu học mà càng lớn tuổi cái chí càng mãnh liệt, có thể lúc nhỏ u tối mà lớn lên thông tuệ lạ thường.

Trên tình trường lúc say mê muốn chết vì tình, lúc lạnh lùng dửng dưng như băng tuyết. Bỏ nhau rồi gương vỡ lại lành, thắm thiết với nhau chỉ một sớm một chiều rồi chia tay. Bữa nay bôn ba chìm nổi, ngày mai ngồi tĩnh tọa đốt đít chẳng thò cổ ra. Lúc này tiền của vào như nước, lúc khác trơ trỏng như bèo trong ao cạn.

Cổ nhân đưa ra câu phú: “Phá Quân nhất diệu tính nan minh” (Phá Quân thật khó hiểu) khó hiểu là do những biến đổi đột ngột.

Nói riêng về tâm lý Phá Quân, đôi lúc ngoài mặt rất mực cứng rắn mà trong thâm tâm lại mềm yếu, bên ngoài bên trong hai cực đoan đi ngược chiều. Đây cũng là lý do khác để Phá Quân khó hiểu. “Phá Quân tính khốc bất nhân, bất an Thân Mệnh” (Người Phá Quân ác liệt bất nhân không nên an ở Thân Mệnh) Những thay đổi tạo ra tình trạng bất nhân chứ không phải sinh ra vốn bất nhân.

Phá Quân tâm thái, lý trí xung động dữ dội theo ngay và phản liền như lời Trotski đã nhận định loài người: “Trong khi cách mạng đang ở thời kì dầu sôi lửa bỏng thật cần hắn, nhưng cách mạng đã thành công rồi thì nên đem hắn ra mà bắn đi”

Phá Quân thích chuyện xung phong hãm trận, nhưng lại mau chán cái điều mình định chết vì nó. Phá Quân cư Thìn Tuất cung đối chiếu là Tử Vi Thiên Tướng cổ nhân luận rằng: “Tướng tại ngoại, quân mệnh hữu sở bất thụ” (Tướng ngoài trận có thể làm trái lệnh vua. Ví như ông tướng được vua sai đi, nhưng vì nhu cầu thực tế do nhận định riêng khả dĩ làm ngược lại mệnh lệnh của vua)

Tại sao Tử Vi Đẩu Số toàn thư lại viết hai câu:

a) Cần được Tử Vi để có uy quyền (Hỉ Tử Vi hữu uy quyền)
b) Gặp Tử Vi mất uy quyền (Phùng Tử Vi thất uy quyền)

Sự khác biệt trên là khác biệt giữa Tử Phá Sửu Mùi và Tử Phá một ở Thìn, một ở Tuất

"Trai bất nhân Phá Quân Thìn Tuất
Gái bạc tình Tham Sát Dần Thân"

Không tuân lệnh vua nếu bị quan niệm là tạo phản thì phải chịu mang tiếng bất nhân. Phá Quân Dần Thân khác với Phá Quân ở Thìn Tuất ở chỗ không thể bao giờ thành công, kể như hoàn toàn hãm địa, sách đề là bình địa. Chữ bình ở đây đối với Phá Quân mang ý nghĩa khá quan trọng, như con cọp vào ruộng chờ người đến bắt giết thôi.

Phá Quân Dần Thân trí tuệ không sáng suốt mà lại ưa làm ẩu làm bừa, thất bại là điều đương nhiên. Phá Quân Dần Thân bị Hỏa Linh công phá càng nhiều, Hỏa với Linh đứng cùng Phá Quân tất gặp Tham Lang hiệp, nhưng không thể gọi như thế là Tham Hỏa Tham Linh được. Trường hợp Phá Quân Linh Hỏa Kình Dương nếu biết an thân thủ phận phục vụ người thì yên.

Phá Quân đắc địa hay hãm địa mà gặp Hỏa Tinh thì xấu dễ gặp nạn, tai nạn gây thương tích hay hoạn nạn với cái lo bị bắt giữ tù tội. Đã gặp Hỏa rồi mà còn thêm Linh Tinh nữa càng đáng ngại hơn, có thể đưa đến tàn tật hay hình đồ.

Về câu phú: “Phá Quân Thìn Tuất nhi ngộ Tuần Khoa cải ách vi lương ư Mậu Quí nhân đa hoạch danh tài” (Phá Quân ở Thìn Tuất mà gặp Tuần Không, Hóa Khoa thì tính tình lại thuần hòa, người tuổi Mậu Quí công danh hiển đạt, làm ăn giàu có). Chỉ có tuổi Mậu mới có thể gặp Tuần và Hóa Khoa thôi, tuổi Quí Phá Quân gặp Hóa Lộc và Tuần, không thể thấy Khoa. Tuần với Khoa hai sao chung sức kềm hãm bớt tính rông rỡ của Phá Quân để gạn lọc trí tuệ Phá Quân nên được việc.

Phá Quân thuộc âm thủy trong hệ Bắc đẩu, hóa khí là hao. Thủy chủ trí tuệ, nếu được đất tất phi thường thông minh, nếu rơi vào thế hãm thì làm càn và ưa nịnh hót, gặp các hung sát tinh khác tính phá hoại tăng cao. Với Tuần Khoa thì Phá Quân trở nên mưu trí thuần hòa tiến thoái có kế hoạch.

Trong Thái Vi phú viết: “Phá Quân ám diệu đồng hương thủy trong tác tủng” nghĩa là Phá Quân đứng cùng ám diệu sẽ chết vì sông nước và trên phần khác đồng bản in lầm: “Phá Quân ám Cự đồng hương thủy trung tác tủng”

Phá Quân không bao giờ đứng với Cự Môn, dù đứng theo thế hiệp. Sau này Trung Châu phái (bên Trung Quốc) đưa ra một luận cứ khá hợp lý rằng: ám diệu là Văn Khúc với Hóa Kị vì rải rác trên các sách khác Trần Đoàn tiên sinh có nói đến Văn Khúc Hóa Kị là ám diệu.

Phía trên còn cắt câu ấy thành hai đoạn cho rõ nghĩa như sau: “Phá Quân ám diệu công hương, thủy trung tác tủng” và cho rằng Phá Quân đứng với Văn Khúc Hóa Kị ở các cung Hợi Tí Sửu (ba cung Thủy - Sửu là thủy khố) và “tác tủng” đây ý chỉ là tối tăm như ngôi cổ mộ chứ không phải chết đuối. Nói tóm lại Phá Quân đứng cùng Văn Khúc Hóa Kị tại Sửu Tí Hợi thì cuộc đời phiêu bạt tối tăm, không bao giờ gặp cơ hội thi thố khí dương mi với đời, có thể là những trang hảo hán anh hùng không gặp thời.
Cách Vũ Khúc Phá Quân đóng Tỵ Hợi xin xem đoạn luận về sao Vũ Khúc.

Những câu phú cần biết liên quan đến Phá Quân:

- Phá tại Khảm Ly tam thiếu tam công quyền đắc trọng
(Phá Quân Tí Ngọ quyền cao chức trọng)

- Phá Quân Tí Ngọ cung vô sát, quan tư thanh hiển chí tam công
(cùng một nghĩa như câu trên)

- "Phá toạ Khảm Ly cô thân độc ảnh
Bật Kình tọa cùng dự thủ danh gia"

(Phá Quân Tí Ngọ gặp Hữu Bật Kình Dương làm nên thành công, nhưng dễ cô độc thường phải lìa bỏ quê hương, người thân)

- Phá Liêm hãm cư Mão Dậu bằng Nguyệt Đức dĩ từ nhân
(Phá Quân thủ Mệnh tại Mão Dậu có Nguyệt Đức thì lại thành người tốt bụng)

- Phá Quân Mão Dậu mặc ngộ Kiếp Kình tu phòng hình ngục
(Phá Quân ở Mão Dậu nếu gặp Kình Dương Địa Kiếp phải lo họa ngục hình)

- Phá Kình Mão Dậu nhi phùng Khoa Bật khởi ngụy Hoàng Sào
(Phá Quân Mão Dậu gặp Hữu Bật Hóa Khoa sẽ như Hoàng Sào làm phản loạn)

- Phá cư Mộ cương quả chi nhân, phùng thời loạn thế ngộ Hình Lộc chấn động uy danh
(Phá Quân thủ Mệnh tại Sửu Mùi hay Thìn Tuất lúc đắc thế trong thời loạn mà gặp Thiên Hình Hóa Lộc uy quyền lớn)

- Phá Liêm ngộ Hỏa tử nghiệp vô nghi
(Mệnh Phá Liêm Hỏa Tinh hay vận thấy Phá Liêm Hỏa sinh nghề tử nghiệp)

- Phá Hao Dương Linh Quan Lộc vị, đác sứ khất cầu
(Phá Quân Song Hao Kình Dương Linh Tinh vào cung Quan Lộc có lúc không có bát mà ăn, thất bại xuống đến đất đen)

- Phá Quân Hỏa Tinh bôn ba lao bác
(thủ Mệnh Phá Quân đứng cùng Hỏa Tinh cuộc đời thường bôn ba chìm nổi)

- Tề tửu kiến Kim phu giai do Phá Quân phùng Thiên Mã
(Phá Quân thủ Mệnh hội Thiên Mã tính ưa ganh ghét thù hận)

- Lã Bất Vi thương phú chi nhân, hạn phùng Phá Tướng Tử Tham Quyền Ấn Hồng Hình Phụ Bật quyền nhiếp tân triều chi tiếm đế
(Lã Bất Vi chỉ là tay buôn bán đến vận hạn gặp Phá Quân Thiên Tướng, Tử Vi Tham Lang thêm Hóa Quyền, Quốc Ấn, Hồng Loan, Thiên Hình, Tả Phù, Hữu Bật bỗng nhiên mà quyền khuynh thiên hạ. Hạn này chỉ có thể đến Hợi hay Tỵ mới gặp đủ các sao kể trên)

- Phá ngộ Kị Tang cư Nô Bộc đa chiêu oán nộ
(Phá Quân với Hóa Kị Tang Hổ ở cung Nô Bộc dễ bị người oán giận. Phá Quân hãm ở cung Nô Bộc cũng vậy)

- Tật cung hạnh phùng Phá Sát, nhi ngộ Song Hao, Mộc Kị sang độc ung thư
(Cung Tật Ách có Phá Quân Thất Sát thì tốt, nhưng nếu thấy luôn cả Hóa Kị Mộc Song Hao lại bị ung thư mụn độc)

- Dần Thân Phá Hỏa Việt lâm ư Tân Đinh tuế, cơ sảo tài hành hạn lưu Mã, Tuyệt sát tinh tứ chi nan bảo (Phá Quân đóng Dần Thân gặp Thiên Việt có tay nghề giỏi, nhưng với tuổi Đinh Tân gặp vận lưu Thiên Mã, Tuyệt và các sát tinh thì có tai nạn gẫy tay gẫy chân)

- Dần cung Phúc tọa, tối hiềm Phá Liêm Dương Việt Linh lục bại dị sinh đức tổn tài suy
(Cung Phúc Đức thấy Phá Quân Liêm Trinh Kình Dương Thiên Việt Linh Tinh thì gia đình không yên, tiền bạc mất mát)

- Phá Quân ngộ Hỏa Linh Đà Nhẫn; Lâm Tuất Thìn nết hẳn gian phi
(Nhẫn là sao Kình Dương)

"Phá phùng Hình Kị huynh hương
Anh em bất thuận hững đường tụng tranh"

- "Phá sao ấy tán tài
Cư điền bán hết lưu lai tổ truyền "

(tệ hại nhất là Phá ở hãm địa đóng Điền Trạch)

"Tứ mộ Phá gặp Lộc Hình
Uy quyền chắc hẳn rạng danh đó mà
Thìn Tuất Phá ngộ Tuần Khoa
Tuổi sanh Quí Mậu thật là hiển vinh"

"Phá Kình Tả Hữu chớ ngờ
Ở cung Mão Dậu chắc là loạn quân"

"Phá Quân nữ mệnh khá xem
Đắc địa cát diệu hòa hiến hiển vang
Hãm cung ác độc lăng loàn
Chỉ làm kế thiếp khỏi đàng sinh ly
Phá Quân Riêu Mã hợp vào
Ấy hạng du đãng ai nào muốn thân"
Được tạo bởi Blogger.

Bài đăng phổ biến